Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. - Điều 19, Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền

13/2/12

BÍ QUYẾT DẠY CON CỦA NGƯỜI PHÁP



Pamela Druckerman và ba con của cô.
Ảnh: Emmanuel Fradin/WSJ


Theo Wall Street Journal
Sau ít năm sống ở Pháp, tôi vẫn không lý giải được nguyên nhân đằng sau sự ngoan ngoãn của những đứa trẻ, và tôi bắt đầu thực sự quan tâm tới cách người Pháp dạy dỗ con cái họ.
Có nhiều câu hỏi tôi thấy cần phải đặt ra. Vì sao sau hàng trăm giờ đồng hồ quan sát ở các sân chơi cho trẻ em ở Pháp, tôi chưa hề nhìn thấy một đứa trẻ nào (ngoại trừ con của tôi) tỏ ra cáu kỉnh? Vì sao những người bạn Pháp của tôi chẳng bao giờ phải vội vã dập điện thoại để giải quyết đòi hỏi nào đó từ con cái họ? Vì sao phòng khách của họ chẳng bao giờ thấy vương vãi đồ chơi trẻ con? Vì sao trong bữa ăn trẻ em Pháp không nghịch phá đồ ăn, và bố mẹ chúng chẳng bao giờ phải la mắng? Mỗi khi những gia đình Mỹ tới thăm chúng tôi, các ông bố bà mẹ thường phải mất công giải quyết những vụ cãi cọ của bọn trẻ, dắt chúng đi chơi quanh nhà, hay cùng chơi đồ chơi trên sàn nhà. Ngược lại, những ông bố bà mẹ Pháp khi tới thăm chúng tôi thường bình thản ngồi uống cà phê, trong khi bọn trẻ có thể tự chơi một cách vui vẻ.

Chắc chắn là tôi không quá thiên vị người Pháp, thậm chí không ưa thích sống ở Pháp cho lắm. Chắc chắn tôi không muốn con mình sau này lớn lên sẽ giống với những người Paris luôn có vẻ ngoài kiêu kỳ và lạnh lùng. Nhưng bản năng người mẹ đã khiến tôi phải bỏ công dành vài năm nghiên cứu về cách dạy con của họ. Và hôm nay, khi Bean của tôi đã được 6 tuổi, cặp em sinh đôi của bé cũng đã được 3 tuổi, tôi có thể kết luận rằng: người Pháp không hoàn hảo, nhưng họ có những bí quyết dạy con rất hiệu quả.
Một nghiên cứu của các nhà kinh tế từ Đại học Princeton sau khi so sánh kinh nghiệm của những bà mẹ từ Columbus, Ohio, Mỹ, với những bà mẹ ở Rennes, Pháp, đã kết luận rằng những bà mẹ Mỹ cảm thấy vất vả gấp đôi các bà mẹ Pháp khi chăm con mình. Một nghiên cứu khác cũng của nhóm nghiên cứu này cho thấy các bà mẹ ở Texas coi những công việc nội trợ khác là dễ thở hơn chăm con
Những ông bố bà mẹ Pháp thuộc tầng lớp trung lưu mà tôi biết đều rất quan tâm tới việc trò chuyện với con cái, đưa chúng đi chơi ngoài thiên nhiên, đọc sách cho con nghe. Họ đưa con đi học tennis, học vẽ, và dẫn tới thăm các bảo tàng khoa học.

Nhưng người Pháp không phải khi nào cũng phải sa đà với con cái. “Đối với tôi, các buổi tối là thời gian riêng của cha mẹ”, một bà mẹ Paris nói với tôi như vậy. “Con gái tôi có thể ở bên chúng tôi nếu nó muốn, nhưng đó là thời gian riêng của người lớn”. Các bậc cha mẹ Pháp muốn con cái họ được kích thích trí tuệ, nhưng không phải khi nào cũng vậy. Trong khi một số em bé Mỹ phải học đánh vần sớm và học với gia sư, thì trẻ em Pháp đơn thuần chỉ ngồi tự chơi lấy.

Khi tôi hỏi các phụ huynh Pháp rằng họ rèn kỷ luật cho con mình như thế nào, họ phải mất vài giây mới hiểu ra ý tôi muốn hỏi. “À, có phải cô muốn hỏi là chúng tôi giáo dục con như thế nào?”, họ hỏi. Từ đó, tôi sớm nhận ra rằng, đối với các bậc cha mẹ Pháp, “kỷ luật” là một khái niệm eo hẹp, liên quan nhiều đến sự trừng phạt, và ít khi dùng đến. Còn “giáo dục” (không nhất thiết phải liên quan tới trường lớp) mới là điều mà các bậc cha mẹ Pháp lúc nào cũng thực hiện.

Dạy con biết kiên nhẫn chờ đợi và tự chơi một mình
Một mấu chốt của sự giáo dục này, đơn giản là dạy cho trẻ phải biết chờ đợi. Đó là lý do tại sao tất cả những em bé Pháp mà tôi biết đều ngủ ngon lành qua đêm ngay từ hai tới ba tháng tuổi. Cha mẹ chúng không bế chúng lên ngay tức khắc khi chúng bắt đầu khóc. Thay vào đó, họ khiến đứa bé học cách tự yên lặng và ngủ trở lại. Đó cũng là lý do tại sao trẻ em Pháp có thể tự bằng lòng và ngồi vui vẻ trong quán với cha mẹ, thay vì ăn vặt cả ngày như trẻ em Mỹ. Đa số trẻ em Pháp đều đặn có ba bữa ăn chính và một bữa ăn vặt mỗi ngày, và đều phải chờ đến đúng giờ mới được ăn.

Một ngày thứ Bảy, tôi đến thăm nhà Delphine Porcher, một phụ nữ ngoài 30 tuổi, làm nghề luật sư lao động, sống ở ngoại ô phía Đông Paris. Khi tôi đến, chồng của cô làm việc với máy tính xách tay trong phòng khách, trong khi bé Aubane mới 1 tuổi ngủ ở gần đó. Pauline, con gái 3 tuổi, ngồi nặn vỏ bánh ngọt ở bàn ăn. Cô bé rất tập trung, và hoàn toàn cưỡng lại được sự thèm ăn trước đám bột bánh.

Delphine nói rằng cô không bao giờ đặt ra mục tiêu phải dạy con mình tính kiên nhẫn. Nhưng những nếp sống hằng ngày trong gia đình khiến đứa trẻ buộc phải học cách trì hoãn sự hưởng thụ. Delphine cho biết đôi khi cô mua kẹo cho Pauline, nhưng cô bé không được phép ăn kẹo cho đến khi tới giờ ăn vặt, dù là phải đợi nhiều tiếng đồng hồ.

Khi Pauline tìm cách xen vào câu chuyện của chúng tôi, Delphine nói, “chờ 2 phút con nhé, mẹ đang nói chuyện chưa xong.” Cách nói của cô vừa tế nhị, vừa cứng rắn. Tôi ấn tượng bởi sự âu yếm của người mẹ này cũng như sự hoàn chắc chắn của cô rằng Pauline sẽ nghe lời. Delphine cũng dạy các con mình một kỹ năng liên quan khác: tự chơi một mình. “Điều quan trọng nhất là thằng bé học cách tự làm cho mình cảm thấy hạnh phúc”, cô nói về bé trai Aubane.

Đây là kỹ năng mà các bà mẹ Pháp có sự cố gắng rất ràng để truyền cho con mình, hơn hẳn các bà mẹ Mỹ. Trong một nghiên cứu năm 2004 mà đối tượng là những người mẹ đã tốt nghiệp đại học ở Mỹ và Pháp, các bà mẹ Mỹ thường xếp việc khuyến khích con mình tự chơi một mình là ở tầm quan trọng mức trung bình. Nhưng các bà mẹ Pháp thì tin rằng điều này là rất quan trọng.

Nói không một cách uy lực
Các phụ huynh Pháp cảm thấy khó tin rằng ở Mỹ người ta ít quan tâm tới việc dạy trẻ em biết kiên nhẫn chờ đợi. Một cặp vợ chồng người Paris kể lại cho tôi nghe kỷ niệm của họ về thời gian họ sống ở Nam California, một gia đình Mỹ mời họ tới chơi nhà. Nhiều năm sau, họ vẫn nhớ ấn tượng về những đứa trẻ Mỹ thường xuyên ngắt lời người lớn trong câu chuyện, và không thời gian cố định nào cho việc ăn vặt, bọn trẻ Mỹ bất cứ khi nào cũng có thể mở tủ lạnh và lấy đồ ăn mà chúng thích. Đối với người Pháp, trẻ em Mỹ hành xử như thể chúng mới là người chủ gia đình.

Điều người Pháp lấy làm lạ, là các phụ huynh Mỹ không biết nói “không”. Điều đó có nghĩa là trẻ em Mỹ không có được những khuôn phép chắc chắn, còn các bậc phụ huynh Mỹ thì bị thiếu quyền uy. Các phụ huynh Pháp thì ngược lại, họ luôn hành xử theo một khuôn phép (cadre) trong việc dạy con. Khuôn phép nghĩa là có những giới hạn rất chắc chắn mà đứa trẻ phải chấp hành theo, nhưng ngược lại, các phụ huynh Pháp giao cho con cái khá nhiều quyền tự do và độc lập, miễn là chúng cư xử trong vòng khuôn phép. 

Uy lực là một trong những sắc thái ấn tượng nhất trong cách dạy con của người Pháp – và có lẽ là kỹ năng khó nhất cho các bậc cha mẹ. Nhiều vị phụ huynh Pháp mà tôi gặp có được vẻ uy lực một cách dễ dàng, tự nhiên, và bình thản trước con cái, điều khiến tôi phải ghen tị. Đó là điều khiến trẻ em Pháp thực sự phải nghe lời cha mẹ, thay vì tảng lờ, cãi lời, hoặc kỳ kèo.

Một buổi sáng Chủ nhật, Frédérique, cô hàng xóm của tôi, phải chứng kiến tôi vất vả cố gắng kiểm soát con trai mình, Leo, khi đó mới 2 tuổi. Leo là đứa bé rất lanh lẹ, và khi ngồi trong công viên, nó thường xuyên tìm cách trốn ra ngoài cổng, khiến tôi phải liên tục canh chừng.

Frédérique mới cách đây 3 tháng có nhận nuôi một đứa trẻ 3 tuổi tóc đỏ từ một trại mồ côi của Nga. Nhưng chỉ cần 3 tháng trong vai trò làm mẹ, với phẩm chất cố hữu của người Pháp, cô ta đã có cái nhìn khác hẳn so với tôi về cách thể hiện uy lực.

Trong khi tôi và Frédérique ngồi trong công viên, Leo luôn tìm cách lẩn ra ngoài cổng. Mỗi lần như vậy tôi lại phải đuổi theo, la mắng, và kéo đứa bé về trong khi nó gào thét. Ban đầu Frédérique chỉ quan sát một cách im lặng. Nhưng rồi cô ta không giữ sự tế nhị nữa, và nói rằng nếu cứ lúc nào cũng chạy theo Leo, thì chúng tôi không thể nào ngồi nói chuyện yên ổn được vài phút.

“Đúng vậy”, tôi nói. “Nhưng tôi có thể làm gì được?” Frédérique cho rằng tôi nên nghiêm khắc với Leo. Tôi nói rằng đã mắng Leo trong suốt 20 phút đấy thôi. Frédérique chỉ mỉm cười, và khuyên rằng tôi nên nói “không” một cách mạnh mẽ hơn. Tôi e là Leo có thể cảm thấy sợ, nhưng Frédérique nói rằng tôi chớ có lo. Lần tiếp theo Leo chạy ra ngoài cổng, tôi “không” một cách đanh sắc hơn bình thường. Nhưng nó vẫn chạy ra ngoài. Tôi đuổi theo và lôi nó về. “Cô thấy không?”, tôi nói. “Không thể trị nó được”.

Frédérique lại cười và bảo tôi đừng nên quát to, chỉ nên nói với âm điệu có trọng lượng hơn. Nhưng Leo vẫn không chịu nghe lời lần tiếp theo. Nhưng dần dần tôi cảm thấy tiếng “không được” của tôi đã có vẻ thuyết phục hơn. Âm thanh vang lên không to hơn, nhưng có tính tự tin và chắc chắn hơn. Tới lần thử thứ tư, khi tôi hoàn toàn cảm thấy sự tự tin ở trong mình, Leo vẫn tới gần cái cổng – nhưng kỳ lạ thay – không mở cánh cửa ra. Nó quay lại nhìn tôi một cách đề phòng. Tôi mở to mắt ra và cố tỏ vẻ không chấp thuận.  

Sau khoảng 10 phút, Leo không còn tìm cách trốn ra nữa. Dường như nó quên mất về cái cổng và chỉ tập trung chơi với những đứa trẻ khác, trong khi tôi và Frédérique có thể ngồi duỗi chân thoải mái trò chuyện. Tôi vẫn còn sốc vì đột nhiên Leo bỗng nhìn tôi như một nhân vật đầy quyền uy.

“Bạn thấy đấy”, Frédérique nói. “Vấn đề là ở sắc thái giọng nói”. Đó là lần đầu tiên, tôi được thấy con mình tỏ ra ngoan ngoãn hệt như một đứa bé Pháp.

Thanh Xuân lược dịch trích đoạn cuốn sách "Bringing Up Bébé: One American Mother Discovers the Wisdom of French Parenting" của Pamela Druckerman vừa được Penguin Press xuất bản hồi đầu tháng 2/2012

"Walter Mischel, một giáo sư 80 tuổi ngành tâm lý học của Đại học Columbia, Mỹ. Ông là chuyên gia hàng đầu thế giới về phương pháp dạy trẻ biết trì hoãn hưởng thụ. Mischel nổi tiếng với “thí nghiệm kẹo mềm” hồi cuối thập kỷ 1960, khi ông làm việc ở Đại học Stanford. Trong thí nghiệm này, những đứa trẻ tầm 4-5 tuổi được dẫn vào một căn phòng, trong đó trên bàn đặt một viên kẹo mềm. Người làm thí nghiệm dặn đứa trẻ rằng anh ta sẽ phải vắng mặt một lát, và nếu khi quay lại mà đứa trẻ vẫn chưa ăn viên kẹo mềm, thì sẽ được thưởng thêm một viên kẹo mềm nữa. Còn nếu đứa trẻ ăn mất viên kẹo mềm thì sẽ không được thưởng.

Đa số các đứa trẻ thường chỉ có thể chờ trong vòng 30 giây. Cứ ba đứa trẻ thì chỉ có một đứa có thể chờ đợi đủ 15 phút. Các nhà nghiên cứu cho rằng, bí quyết để đứa trẻ chờ đợi lâu như thế mà không ăn mất viên kẹo, là nhờ nó biết tự phân tán sự chú ý của mình sang việc khác.
Tới giữa thập kỷ 1980, giáo sư Mischel và các cộng sự nhận ra rằng những đứa trẻ biết trì hoãn hưởng thụ khi tham gia thí nghiệm trước đây, lúc lớn lên đã trở thành những người có khả năng tập trung và suy luận tốt hơn, và “không bị suy sụp khi gặp phải áp lực”.

Liệu việc dạy cho trẻ em biết trì hoãn hưởng thụ - như các bậc phụ huynh trung lưu ở Pháp vẫn làm – thực sự khiến chúng trở nên bình tĩnh hơn và vững vàng hơn? Liệu có phải điều này phần nào lý giải tại sao những đứa trẻ từ các gia đình trung lưu Mỹ, do được đáp ứng các nhu cầu ngay tức thời, nên thường ít có khả năng chịu đựng các áp lực? Giáo sư Mischel cho rằng so với ở trẻ em Pháp, dường như trẻ em Mỹ kém khả năng tự kiểm soát hơn. "
Nguồn:
Tia sáng

VIỆT NAM YÊU DẤU