Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. - Điều 19, Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền

22/12/12

NHỮNG LỖI TIẾNG VIỆT PHÓNG VIÊN THƯỜNG MẮC VÀ THƯỜNG THẤY TRÊN MẶT BÁO


Nhà báo Nguyễn Thông

1. Cách viết không thống nhất những từ nước ngoài đã được Việt hóa, tức là đã được phiên âm, dùng phổ biến trong tiếng Việt. Ví dụ: càphê, ximăng, xíchlô, bêtông, axít, vắcxin, kiốt (trên báo Lao Động) hay là cà phê, xi măng, xích lô, bê tông, a xít, vắc xin, ki ốt? Theo chúng tôi, những từ như thế đã thoát khỏi nguyên gốc, được sử dụng như mọi từ tiếng Việt khác, có dấu tiếng Việt thì cần viết tách ra.

2. Nhiều từ có nghĩa rất rõ ràng nhưng thường bị viết sai: Tham quan – Thăm quan, chấp bút – chắp bút, lặp lại – lập lại, trùng lặp – trùng lắp, hằng ngày – hàng ngày, thập niên – thập kỷ… Chúng tôi nhận thấy hầu hết những trường hợp sai do phóng viên không chịu hiểu kỹ nghĩa của thành tố ghép (đẳng lập hoặc chính phụ) hoặc không nắm được nghĩa của từ Hán Việt, khiến từ vô nghĩa hoặc sai trầm trọng.

3. Người viết không nắm được kết cấu chủ vị trong câu nên thường sai trong các trường hợp đặt câu có vị ngữ là những động từ cho biết, khẳng định, nói, nói rằngkhi đặt dấu phảy ngay sau những từ đó. Theo chúng tôi, để bảo đảm chuẩn tiếng Việt phải viết liền thành phần bổ ngữ ngay sau đó; hoặc nếu nội dung có tính liệt kê thì dùng dấu hai chấm (:).

4. Những từ nước ngoài về đo lường viết tắt như: km (ki lô mét), kg (ki lô gam), ha (héc ta)… bị nhiều phóng viên và tờ báo dùng không chuẩn mực. Cần lưu ý rằng những từ đó khi đi liền với con số cụ thể thì có thể viết tắt (ví dụ 200ha, 15km) nhưng khi đi với chữ thì phải viết đầy đủ (ví dụ 200 ngàn héc ta, 1 vạn ki lô mét). Điều rất đáng lưu ý là trong tiếng Việt đã có những từ thay thế rất gọn nhưng ít được dùng, ví dụ: cây số (ki lô mét), ký (ki lô gam).
Ngoài ra, cần quy định rõ những chữ viết tắt chỉ đơn vị tiền tệ, thời gian, đo lường… (như đồng-đ, mét-m, giờ-g, ki lô wat/giờ-kwh…) cần viết sát ngay sau các con số bởi khi nó nằm ở cuối dòng dễ bị đẩy xuống dòng dưới đứng một mình, trái với quy chuẩn tiếng Việt.

 5. Dùng dấu phảy (,) tràn lan. Không chỉ trên mặt báo mà ngay cả những văn bản quan trọng của nhà nước bây giờ cũng nhan nhản sự lạm dụng dấu phảy. Họ lý giải rằng tách ra bằng dấu phảy để nhấn mạnh, làm rõ từng thành phần, từng yếu tố được nói đến nhưng thực ra không cần thiết bởi không dùng dấu phảy thì người đọc vẫn hiểu nội dung văn bản đang thể hiện cái gì. Rất nhiều từ ghép, thành ngữ cần phải viết liền thì bị tách ra bằng dấu phảy khiến văn bản trở nên rối, vô duyên, ví dụ: phòng, chống tham nhũng (trong khi đó lại viết liền phòng chống lụt bão); tắm, giặt; cơm, áo, gạo, tiền; rút dây, động rừng; trọng nam, khinh nữ; mưa to, gió lớn; dạy thêm, học thêm; nhà cao, cửa rộng; giận cá, chém thớt…

6. Sai về từ Hán Việt rất phổ biến, nhất là khi dùng những từ: yếu điểm (điểm yếu), vấn nạn (vấn đề tệ nạn), sáp nhập (sát nhập), tự (khi viết về ai đó kèm theo một cái tên phụ, ví dụ: Hải, tự Hải bánh; đúng ra phải viết tức Hải bánh; tên tự là tên chữ của những bậc hiền tài, không thể dùng cho kẻ xấu). Vừa qua trên một tờ báo còn đặt cái tít rõ to “Trúng khẩu đồng từ” mà đúng thì phải là “Chúng khẩu đồng từ”, không phải do lỗi kỹ thuật hay do viết ngọng mà do không hiểu nghĩa Hán Việt, cứ dùng bừa (lặp lại 2 lần).

7. Không hiểu do đâu, từ bao giờ, trên cả báo in lẫn phát thanh, truyền hình các phóng viên, phát thanh viên hay dùng cụm từ “bên cạnh đó”. Trong rất nhiều trường hợp, đúng ra phải dùng từ “ngoài ra” bởi không thể “bên cạnh đó” với những điều được nhắc đến ở dạng vô hình, không cụ thể. Ví dụ: công ty A đã tổng kết cuối năm, bên cạnh đó còn chuẩn bị kế hoạch năm mới.

8. Tốt nhất là tiến tới bỏ dần các chữ số La mã trên mặt báo vì khó đọc, khó nhớ. Ví dụ: thế kỷ XIX, thế kỷ XXI vừa rườm rà, vừa khó suy; trong khi viết đơn giản 19, 21 thì ai cũng biết.

VIỆT NAM YÊU DẤU