Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. - Điều 19, Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền

21/11/11

TRẢI NGHIỆM TỰ HỌC CỦA TÔI

Nguyễn Văn Tuấn
Báo Sài Gòn tiếp thị có một diễn đàn Còn không, tự học ngày nay, và họ mời tôi tham gia kể lại chuyện tự học của mình. Đây là đề tài gần tim tôi, nên tôi nhận lời viết ngay. Đáng lẽ phải viết cả cuốn sách về kinh nghiệm này, nhưng vài dòng phác họa tưởng cũng đủ để chia sẻ với các bạn …
Bài học về sự chủ động trong học hành của tôi bắt đầu từ khoảng 30 năm về trước. Dạo đó, tôi mới sang Úc, và vào học chương trình master. Lần đầu tiên vào giảng đường, tôi bị sốc vì gặp một vị giáo sư cao tuổi rất lạ lùng.
Thầy đọc trò chép: cảnh quen thuộc trên các giảng đường Việt Nam. Ảnh: Hồng Thái


Bài học đắt giá
Ông đến lớp học hoàn toàn tay không. Không có bài giảng, và cũng không có tài liệu như các vị giáo sư khác. Ông ngồi trên bàn viết, một chân chấm đất, một chân đong đưa, thỉnh thoảng đi qua đi lại, và nói chuyện suốt gần hai tiếng đồng hồ. Ông nói về nghiên cứu của ông là chính, và tỏ ra cực kỳ hào hứng. Sinh viên chúng tôi há hốc ngồi nghe, chẳng ghi chép gì cả, và… chẳng hiểu gì cả. Trong suốt thời gian đó, ông không hề đụng đến bút mực, và dĩ nhiên là không bao giờ viết gì trên bảng (thời đó chưa có powerpoint). Đến giờ tan lớp, có sinh viên thắc mắc tại sao thầy không viết gì để sinh viên ghi lại vài ý, ông thản nhiên trả lời: "Đó không phải là việc của tôi, tôi chỉ cho các anh chị ý tưởng, các anh chị hãy về nhà tìm thông tin mà học thêm".
Câu nói tìm thông tin mà học thêm đó chính là một phương pháp giáo dục phổ biến trong các đại học phương Tây. Đó cũng chính là khái niệm tự học mà thuật ngữ giáo dục gọi là autodidacticism. Thật vậy, sinh viên càng học cao càng được khuyến khích tự học. Ngay từ bậc cử nhân và thạc sĩ, sinh viên đã được cơ hội làm quen với việc chủ động tìm thông tin, thẩm định thông tin, phản biện, và làm nghiên cứu khoa học. Họ được huấn luyện để tự mình phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề, được dạy kỹ năng tự làm nghiên cứu, rèn luyện tinh thần tôn trọng sự thật và khách quan trong phán xét. Do đó, khi sinh viên tốt nghiệp đại học, họ tự tin về kiến thức, năng động trong công việc, và sẵn sàng tham gia vai trò lãnh đạo (nếu cần).
Có lần tôi nghe một anh người Mỹ còn trẻ nói chuyện về một đề tài thần kinh mà tôi cứ tưởng anh là nghiên cứu sinh tiến sĩ, nhưng thật ra anh chưa tốt nghiệp trường y. Một lần khác, tôi chứng kiến hai em bé người Mỹ chỉ mới 13 tuổi trình bày lưu loát một nghiên cứu (do chính hai em thực hiện) trong hội nghị loãng xương quốc tế với trên 5.000 người tham dự. Sự tự tin và kỹ năng nghiên cứu của họ đã được hun đúc ngay từ lúc còn nhỏ. Họ tự học từ kiến thức căn bản, và vì họ tự mình thu thập thông tin nên họ cảm nhận được và tự tin với điều mình nói.
Ngược lại, sinh viên Việt Nam chúng ta có xu hướng thụ động và thiếu tinh thần tự học. Chẳng nói đâu xa, có thể lấy cá nhân tôi ra làm ví dụ. Khi mới vào học ở Úc, có lần tôi được cho một bài tập chỉ vẻn vẹn hai câu văn, yêu cầu bình luận về một công trình nghiên cứu. Thật ra, lúc đó, chẳng ai trong chúng tôi biết chủ đề của công trình nghiên cứu, vì sinh viên xuất thân từ nhiều chuyên khoa khác nhau. Cần mở ngoặc ở đây là lần đó bài làm của tôi thất bại thê thảm vì tôi chỉ lặp lại những kiến thức cơ bản, và thầy phê chỉ một chữ duy nhất “boring” (có nghĩa là đọc thấy chán, chẳng có gì sáng tạo) với điểm gần 0, điểm thấp nhất trong đời đi học của tôi. Nhưng chính qua câu hỏi đó, chính qua sự thất bại thê thảm đó, tôi có dịp chẳng những tự tìm hiểu những vấn đề cơ bản, mà còn học cách đặt vấn đề, lượng giá khoa học của thông tin, và nhất là phát hiện vấn đề.
Môn thể thao trí tuệ tuyệt vời
Cũng chính qua thất bại đó mà tôi ý thức được sự khác biệt về cách dạy học ở Việt Nam và Úc. Trong khi ở Việt Nam, chúng ta quen với cách học “thầy giảng trò chép” bấy lâu nay, thì ở ngoài người ta đã bỏ cách dạy đó và tạo điều kiện cho sinh viên tự học, tự tìm tòi để nâng cao kiến thức và kỹ năng. Tôi có thể ví cách học ngoài này là người thầy cho sinh viên cái “cần câu” hay phương tiện để sử dụng trong tương lai, và phương tiện đó chính là tư duy độc lập và chủ động. Một khi sinh viên đã có phương tiện và tự tạo ra hay thu thập được dữ liệu / kỹ năng mới, họ sẽ tự tin hơn và hứng thú hơn với thành tựu của chính mình. Nếu họ chỉ sử dụng dữ liệu của người khác một cách thụ động thì đó không phải là cái gì đáng tự hào và sinh viên sẽ trở nên thiếu tự tin. Phải gần một năm trong môi trường giáo dục ở Úc, tôi mới làm quen với cách học chủ động.
Phần lớn sinh viên Việt Nam (hay Á châu nói chung) có xu hướng học theo công thức, nhưng còn rất kém trong sáng tạo. Thật vậy, kinh nghiệm của tôi trong vai trò người dạy cho thấy sinh viên Việt Nam nói chung giỏi giải những bài toán khó, nhưng khi hỏi họ ứng dụng trong thực tế thì họ gần như… bí. Khi học trong khuôn khổ, sinh viên Việt Nam rất khá; nhưng khi được cho “học tự do” như thiết kế thí nghiệm, phát kiến ý tưởng khoa học, thì sinh viên Việt Nam kém hẳn sinh viên địa phương. Do đó, trong những năm đầu, sinh viên Việt Nam khá hơn sinh viên Úc, nhưng khi học lên càng cao thì sinh viên Việt Nam càng kém.
Sinh viên Á châu và Việt Nam cũng kém tinh thần làm việc trong đội (team work). Một anh bạn tôi là giáo sư hoá học của đại học New South Wales nhận xét rằng khi làm việc trong nhóm, sinh viên phương Tây thường năng động, phát kiến tốt, tìm cách giải quyết vấn đề, chủ động đóng vai trò lãnh đạo; còn sinh viên Á châu nói chung và Việt Nam nói riêng chỉ giỏi làm những nhiệm vụ được giao phó! Anh bạn tôi kể rằng có lần anh đưa một sinh viên Úc năm cuối chương trình kỹ sư làm một đề án chuyên môn, sau khi nghe qua mục đích đề án chừng nửa giờ, cô ta đi tìm tài liệu, chủ động liên lạc với các tổ chức về môi sinh, với những chuyên gia khắp thế giới, thậm chí liên lạc cả Liên Hiệp Quốc mà không cần ai chỉ bảo. Về mặt kỹ thuật cô ta cũng tự học lấy những kỹ thuật tính toán mới mẻ bằng máy tính chưa hề được dạy. Sáu tháng sau, cô ta làm xong một công trình có giá trị, được đăng trong một tạp chí quốc tế, và có ít nhiều tiếng vang trong ngành. Sự tháo vát như vậy không phải là không có ở sinh viên Việt Nam, nhưng rất hiếm.
Tinh thần chủ động và tự học đóng vai trò rất quan trọng trong học tiến sĩ. Nghiên cứu sinh khi tốt nghiệp tiến sĩ phải chứng tỏ mình có những kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành, phải có khả năng cập nhật hóa kiến thức cũng như tất cả những phát triển mới liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, có kỹ năng phát hiện vấn đề hay đặt câu hỏi có ý nghĩa cho nghiên cứu chuyên ngành của mình. Nhưng một trong những tiêu chuẩn của tiến sĩ là nghiên cứu sinh phải chứng tỏ mình độc lập sau khi tốt nghiệp. Nhưng kỹ năng này phần lớn là do nghiên cứu sinh tự học, chứ rất ít khi nào thầy cô “cầm tay chỉ việc”. Thật vậy, học tiến sĩ thường phải làm việc với một hay hai thầy / cô hướng dẫn. Có ba “loại” thầy hướng dẫn chính: nhà khoa học, doanh nhân, và nhà độc tài. Người thầy trong vai trò nhà khoa học là đồng nghiệp của nghiên cứu sinh, cho định hướng nghiên cứu, nhiệt tình nâng đỡ và chia sẻ kiến thức với nghiên cứu sinh để cả hai thầy trò có thể thành công trong trường khoa học. Người thầy kiểu doanh nhân là người rất bận, ít có thì giờ để thường xuyên gặp nghiên cứu sinh, nhưng lúc nào cũng đòi hỏi phải có “sản phẩm” (tức bài báo khoa học), mà không mấy quan tâm đến chuyện nghiên cứu sinh phải xoay xở ra sao. Người thầy kiểu nhà độc tài là người rất khó tính, xem nghiên cứu như là “nô lệ” phục vụ cho sự nghiệp của họ, lúc nào cũng đòi hỏi nghiên cứu sinh phải báo cáo từng chi tiết một, và lúc nào cũng đòi hỏi phải có sản phẩm theo đúng định kì. (Cố nhiên, còn có một loại “thầy” thứ tư là loại… vô trách nhiệm, nhận nghiên cứu sinh mà không có định hướng cũng chẳng giúp gì cho nghiên cứu sinh, nhưng đây không thể xem là thầy nên không được tính ở đây). Dù học tiến sĩ dưới bất cứ loại thầy nào thì nghiên cứu sinh phải có tư duy độc lập, có tinh thần tự học và chủ động.
Tự học hay autodidacticism không dễ. Nó đòi hỏi người học phải tập trung, và học từ cơ bản chứ không phải học từ ngọn. Chẳng hạn như mỗi ngày tôi học một từ tiếng Anh, tôi phải học từ đó đến từ đâu, có nghĩa gì, và những cách sử dụng từ đó. Tự học không có nghĩa là học trong cô đơn, mà có giao tiếp với bạn bè để cùng học hỏi. Tự học không có nghĩa là chỉ đọc sách, đọc báo, mà phải làm theo sách, thực hành từ bài báo cho đến khi hiểu. Tự học cũng có nghĩa là học cách phản biện và phát hiện vấn đề. Tuy tự học không dễ, nhưng đó là hình thức thể thao trí tuệ tuyệt vời nhất và có hiệu quả nhất.
Mục đích thực và chính của việc học hành là để mở mang trí tuệ, trau dồi kiến thức, rèn luyện nhân cách, và làm người hữu ích cho xã hội. Những mục tiêu đó không thể chỉ học trong vòng vài năm, mà phải học suốt đời, chính vì thế mà ở các nước phương Tây người ta có khái niệm lifelong learning – học suốt đời. Học suốt đời là một cách để chúng ta hấp thu tri thức và kỹ năng mới qua học hành và kinh nghiệm không chỉ trong nhà trường mà còn ngoài xã hội nói chung. Nhìn như thế để thấy rằng tư duy tự học và chủ động học tập đóng vai trò quan trọng số một trong cuộc sống.

VIỆT NAM YÊU DẤU