Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. - Điều 19, Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền

13/12/10

QUYỀN CON NGƯỜI

Ayn Rand
Phạm Đoan Trang dịch
“Quyền” là một khái niệm đạo đức; là khái niệm tạo sự dịch chuyển logic từ các nguyên tắc hướng dẫn hành động của cá nhân tới các nguyên tắc hướng dẫn quan hệ của anh ta với những người khác; là khái niệm duy trì và bảo vệ đạo đức cá nhân trong xã hội; là mối liên kết giữa quy tắc đạo đức của một cá nhân và quy tắc pháp lý của một xã hội, mối liên kết giữa đạo đức và chính trị. Quyền cá nhân là phương tiện để đặt xã hội xuống dưới luật đạo đức.
Mọi hệ thống chính trị đều dựa trên một số quy tắc về đạo đức. Đạo đức học thống trị trong lịch sử nhân loại là các biến thế của học thuyết tập thể-vị tha, thứ học thuyết đặt cá nhân thấp hơn các thế lực thần bí hoặc xã hội. Hậu quả là phần lớn các hệ thống chính trị đều là những biến thể của cùng một dạng chuyên chế nhà nước, chỉ khác nhau ở mức độ chứ không phải ở nguyên tắc cơ bản, chỉ bị giới hạn một cách tình cờ bởi truyền thống, hỗn loạn, xung đột đẫm máu và các cuộc sụp đổ có tính chất chu kỳ. Trong tất cả những chế độ như thế, đạo đức là một thứ quy tắc áp dụng cho cá nhân chứ không phải cho xã hội. Xã hội được đặt bên ngoài luật đạo đức, cùng với những biểu hiện hay nguồn gốc của luật đạo đức ấy, hay những người độc quyền diễn giải nó; và sự rao giảng về hành động xả thân cống hiến cho trách nhiệm xã hội được coi như mục đích chính của đạo đức học trong sự tồn tại thế tục của con người.

Vì không tồn tại thực thể nào gọi là “xã hội”, vì xã hội chỉ là một số các cá nhân riêng lẻ, nên điều này có nghĩa là, trong thực tế, những kẻ cai trị xã hội được miễn trừ khỏi luật đạo đức. Chỉ trừ việc phải tuân thủ các nghi thức truyền thống, còn lại, họ nắm quyền lực tuyệt đối và áp đặt lên xã hội sự tuân lệnh mù quáng, dựa trên nguyên tắc tuyệt đối là: “Cái tốt là cái gì tốt cho xã hội (hay cho bộ lạc, chủng tộc, quốc gia), và các sắc lệnh của nhà cầm quyền là tiếng nói của cái tốt trên đời”.
Điều này đúng với mọi chế độ toàn trị, đúng với mọi biến thể của đạo đức học theo chủ nghĩa tập thể-vị tha, thần bí hay xã hội. “The Divine Rights of Kings” (Quyền Thần Thánh Của Các Vị Vua) tóm tắt luận thuyết chính trị áp dụng cho các chế độ toàn trị thần quyền; còn “Vox populi, vox dei” (Ý Dân Là Ý Trời) tóm tắt luận thuyết áp dụng cho các nhà nước toàn trị. Một số bằng chứng: chế độ thần quyền ở Ai Cập, với các Pharaoh được coi như hiện thân của Chúa Trời; ách cai trị không giới hạn của đa số hay nền dân chủ của Athens; nhà nước phúc lợi của các hoàng đế La Mã; Tòa án Dị giáo thời Trung cổ; chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp; nhà nước phúc lợi của Bismarck ở Phổ; những căn phòng hơi độc của Đức Quốc xã; những lò sát sinh ở Liên Xô.
Tất cả những chế độ chính trị này đều là biểu hiện của đạo đức tập thể-vị tha. Đặc điểm chung của chúng là xã hội đứng bên trên luật đạo đức, như một thầy tế tùy tiện, toàn quyền, tối cao. Do đó, về mặt chính trị, tất cả các chế độ này đều là biến thể của một xã hội phi đạo đức.
Thành tựu cách mạng nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là việc đặt xã hội xuống thấp hơn luật đạo đức.
Nguyên tắc về các quyền cá nhân của con người thể hiện sự vươn rộng của đạo đức sang hệ thống xã hội – như một sự giới hạn đối với quyền lực của nhà nước, bảo vệ con người trước sức mạnh tàn bạo của cái tập thể, đặt lẽ phải lên trên quyền lực. Mỹ là xã hội đạo đức đầu tiên trong lịch sử.
Tất cả các chế độ trước đó đều coi con người như phương tiện hiến dâng cho mục đích của những người khác, và coi xã hội là mục đích của chính nó. Nước Mỹ thì coi mỗi con người là mục đích của chính mình, còn xã hội như phương tiện để đi đến một sự đồng tồn tại hòa bình, có trật tự, tự nguyện giữa các cá nhân. Tất cả các chế độ trước đó đều cho rằng đời sống của cá nhân thuộc về xã hội, xã hội có thể loại bỏ cá nhân theo bất kỳ cách nào nó muốn; tự do mà cá nhân được hưởng chỉ là nhờ sự ban ơn, sự cho phép của xã hội, và tự do ấy có thể bị rút lại bất cứ lúc nào. Mỹ cho rằng đời sống của mỗi con người thuộc về chính cá nhân đó, do quyền của cá nhân đó mang lại (nghĩa là: do nguyên tắc đạo đức và do chính bản chất con người của cá nhân mang lại), rằng quyền là tài sản thuộc sở hữu của mỗi cá nhân, xã hội do đó không có quyền gì, và mục đích đạo đức duy nhất của nhà nước là bảo vệ các quyền cá nhân.
“Quyền” là nguyên tắc đạo đức xác định và thừa nhận sự tự do hành động của con người trong một xã hội nhất định. Chỉ có một quyền cơ bản mà thôi (tất cả các quyền khác là kết quả hoặc hệ quả tất yếu của quyền cơ bản này): quyền của con người đối với đời sống cá nhân. Đời sống là một quá trình hành động tự duy trì và tự sinh sôi; quyền đối với đời sống tức là quyền hành động tự duy trì và tự sinh sôi – có nghĩa là: tự do tiến hành tất cả các hành động mà tự nhiên đòi hỏi từ một thực thể có lý trí, để hỗ trợ, thúc đẩy, hoàn thành và hưởng thụ đời sống riêng của mình. (Đó là ý nghĩa của quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc).
Khái niệm “quyền” chỉ liên quan đến hành động – mà cụ thể là liên quan đến tự do hành động, nghĩa là thoát khỏi những cưỡng chế về mặt thể xác, thoát khỏi tình trạng bị ép buộc hay bị can thiệp bởi/từ những người khác.
Do đó, đối với mỗi cá nhân, quyền là sự thừa nhận về mặt đạo đức đối với một sự chọn lựa tích cực – được tự do hành động theo lý trí, vì các mục tiêu riêng, do sự lựa chọn riêng tự nguyện, không bị cưỡng ép. Về phần những người xung quanh, các quyền của cá nhân đó không áp đặt nghĩa vụ nào lên những người xung quanh ngoại trừ một quyền phủ quyết: họ không được vi phạm các quyền của cá nhân đó.
Quyền sống là nguồn của mọi quyền, và quyền sở hữu là cách duy nhất để thi hành các quyền. Không có quyền sở hữu, tất cả các quyền khác là bất khả thi. Bởi vì con người phải tự mình duy trì đời sống của mình, cho nên người nào không có quyền đối với sản phẩm do nỗ lực cá nhân tạo ra thì sẽ không có cách nào sống được. Người nào sản xuất và bị những kẻ khác chiếm đoạt sản phẩm, thì ắt là nô lệ.
Hãy nhớ rằng giống như tất cả các quyền khác, quyền sở hữu là quyền hành động: nó không phải là quyền đối với một vật (khách thể), mà là quyền đối với hành động và các kết quả của hành động sản xuất hay phát hiện ra vật đó. Nó không đảm bảo con người sẽ tìm ra cái gì đó, mà chỉ là sự đảm bảo rằng nếu ai đó phát hiện một vật thì anh ta sẽ sở hữu nó. Đó là quyền nhận được, giữ lấy, sử dụng và định đoạt giá trị vật chất của tài sản.
Khái niệm quyền cá nhân còn mới mẻ trong lịch sử nhân loại đến nỗi, cho tới ngày nay, nhiều người vẫn không nắm bắt được nó một cách đầy đủ. Theo hai luận thuyết về đạo đức học - thần bí và xã hội - một số người khẳng định quyền là tặng phẩm của Chúa Trời, những người kia thì cho rằng quyền là tặng phẩm của xã hội. Nhưng, trong thực tế, nguồn gốc của quyền là bản chất con người.
Tuyên ngôn Độc lập (của nước Mỹ – ND) tuyên bố rằng con người “được Tạo hóa ban cho những quyền không thể xâm phạm”. Cho dù người ta coi con người là sản phẩm của Tạo hóa hay ra đời một cách tự nhiên, vấn đề nguồn gốc nhân loại cũng không làm thay đổi sự thật rằng con người là thực thể thuộc một loài đặc biệt – thực thể có lý trí – con người không thể hành động hiệu quả dưới sự cưỡng ép, quyền là điều kiện cần cho sự tồn tại đặc biệt của con người.
“Nguồn gốc của quyền con người không phải là luật thần thánh hay luật quốc hội ban hành, mà là luật đồng nhất. A là A, và Con Người là Con Người. Quyền là điều kiện mà bản chất con người đòi hỏi để có thể tồn tại một cách thích đáng. Ngay khi xuất hiện trên trái đất, mỗi cá nhân đều có quyền sử dụng trí tuệ của mình, làm việc vì các giá trị của mình và giữ lấy sản phẩm do mình tạo ra. Nếu cuộc sống trên trái đất là mục đích thì con người có quyền sống như một thực thể có lý trí: tự nhiên không cho phép con người phi lý trí”. (trích trong tác phẩm Atlas Shrugged - Ayn Rand)
Vi phạm quyền con người nghĩa là bắt buộc con người phải hành động ngược với lý trí, hay cướp đoạt các giá trị của con người. Về cơ bản, chỉ có một cách để làm việc đó: sử dụng vũ lực. Có hai đối tượng tiềm tàng khả năng vi phạm quyền con người: tội phạm và chính quyền. Thành tựu vĩ đại của nước Mỹ là vạch ra được sự phân biệt giữa hai đối tượng này – bằng cách cấm mỗi đối tượng thực hiện những hoạt động được thừa nhận là hợp pháp của đối tượng kia.
Tuyên ngôn Độc lập đặt ra nguyên tắc rằng “để bảo đảm những quyền này, chính quyền được lập ra trong nhân dân”. Đó là lời biện minh duy nhất có giá trị cho chính quyền, và nó định ra mục đích duy nhất của chính quyền: bảo vệ quyền con người, bằng cách bảo vệ con người trước bạo lực thể chất.
Do đó, chức năng của nhà nước được thay đổi từ vai trò của kẻ cai trị thành kẻ phục vụ. Nhà nước phải bảo vệ người dân khỏi tội phạm – và Hiến pháp được soạn thảo là để bảo vệ người dân trước nhà nước. Tuyên ngôn Nhân quyền (của Mỹ – ND) không nhằm chống lại các công dân, mà chống lại chính quyền – như một lời tuyên bố dứt khoát rằng các quyền cá nhân thay thế cho bất kỳ thế lực cộng đồng hay xã hội nào.
Kết quả là dạng thức một xã hội văn minh mà nước Mỹ đã gần đạt tới - trong cái dải ngắn ngủi khoảng 150 năm. Một xã hội văn minh là xã hội trong đó bạo lực bị nghiêm cấm trong các quan hệ giữa người với người; chính quyền, đóng vai trò như cảnh sát, chỉ được phép sử dụng vũ lực để thực thi biện pháp trả đũa chỉ nhằm đáp lại những người đã ra tay sử dụng bạo lực trước.
Điều này là ý nghĩa và mục đích căn bản của triết học chính trị Mỹ, ẩn chứa trong cái nguyên tắc về các quyền cá nhân. Nhưng nó không được hình thành một cách rõ ràng, cũng không được chấp nhận hoàn toàn hay thực thi một cách nhất quán.
Mâu thuẫn nội tại của nước Mỹ là đạo đức học vị tha-tập thể. Chủ nghĩa vị tha không đi cùng với tự do, chủ nghĩa tư bản và các quyền cá nhân được. Người ta không thể mưu cầu hạnh phúc với tâm lý của một con vật bị tế thần.
Chính là khái niệm quyền cá nhân đã sản sinh ra xã hội tự do. Chính từ sự tiêu diệt các quyền cá nhân mà tự do bắt đầu bị hủy hoại.
Một nền chuyên chế tập thể vốn dĩ không dám nô dịch hóa bằng cách thẳng thừng tước đoạt các giá trị vật chất hay đạo đức của quốc gia. Điều này phải được thực hiện thông qua một quá trình mục ruỗng từ bên trong. Cũng giống như trong lĩnh vực sản xuất vật chất, hành động cướp bóc tài sản một đất nước được thực hiện bằng cách tạo lạm phát tiền tệ; thế là ngày nay người ta có thể chứng kiến lạm phát được áp dụng khi bàn về các quyền. Quá trình này kéo theo một số lượng tăng lên các “quyền” mới được ban hành, nhiều đến mức người ta không để ý thấy ý nghĩa của khái niệm quyền đang bị lật ngược. Tiền xấu đẩy tiền tốt khỏi lưu thông, tương tự, những “quyền mới in trên báo” này phủ định quyền đích thực.
Hãy quan sát thực trạng kỳ lạ, là chưa bao giờ trên khắp thế giới bùng nổ đến thế hai hiện tượng trái ngược nhau: các “quyền” mới được tạo thêm ra và các trại cưỡng bức lao động.
“Chiêu bài” ở đây là hoán đổi khái niệm quyền từ địa hạt chính trị sang địa hạt kinh tế.
Cương lĩnh năm 1960 của Đảng Dân chủ Mỹ tóm tắt quá trình hoán đổi này một cách thẳng thừng và rõ ràng. Cương lĩnh tuyên bố rằng chính quyền thuộc Đảng Dân chủ “sẽ tái khẳng định đạo luật về quyền kinh tế mà Franklin Roosevelt từng ghi vào lương tâm quốc gia của chúng ta 16 năm về trước”.
Hãy nắm thật vững ý nghĩa của khái niệm “quyền” khi bạn đọc danh sách các quyền mà cương lĩnh đó đưa ra:
  1. Quyền làm một công việc hữu ích và được trả công, trong các ngành sản xuất hay thương mại, trên nông trang hay trong hầm mỏ của quốc gia.
  2. Quyền tìm kiếm thu nhập để cung cấp đầy đủ lương thực thực phẩm, quần áo và phương tiện giải trí.
  3. Quyền của mọi nông dân nuôi trồng và bán sản phẩm của mình để có doanh thu chu cấp cho mình và gia đình.
  4. Quyền của mọi doanh nhân lớn và nhỏ được tự do kinh doanh, không bị cạnh tranh không lành mạnh, không phải chịu sự khống chế của các nhà độc quyền trong nước và nước ngoài.
  5. Quyền của mọi gia đình được có nhà ở tử tế.
  6. Quyền được chăm sóc y tế thích đáng, cơ hội được thụ hưởng chăm sóc sức khỏe tốt.
  7. Quyền được bảo vệ một cách phù hợp khỏi những vấn đề về tuổi già, ốm đau, tai nạn và thất nghiệp.
  8. Quyền hưởng một nền giáo dục tốt.
Đặt thêm một câu hỏi vào sau mỗi trong số 8 mệnh đề trên, ta sẽ thấy rõ vấn đề: … với cái giá do ai trả?
Công việc, lương thực thực phẩm, quần áo, phương tiện giải trí (!), nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục, v.v. không tự nhiên mọc ra. Chúng là những giá trị nhân tạo - hàng hóa và dịch vụ do con người sản xuất. Ai cung cấp chúng?
Nếu một số người được trao quyền đối với sản phẩm do những người khác làm ra, thì có nghĩa là những người khác kia bị tước mất quyền và bị cưỡng bức lao động.
Bất kỳ “quyền” được viện dẫn nào của một cá nhân, mà đưa đến sự vi phạm quyền của cá nhân khác, đều không phải là và không thể là một quyền.
Không ai có quyền áp đặt một nghĩa vụ không lựa chọn, một nhiệm vụ không được trả công lên người khác, hay ép người khác phải quy phục. Không có cái gọi là “quyền nô dịch”.
Quyền của một người không liên quan đến hành động của những người khác thực thi quyền đó; nó chỉ liên quan đến việc chủ thể được tự do thực thi quyền bằng nỗ lực riêng mình.
Vì vậy, hãy nhìn nhận sự sáng suốt của các vị Tổ khai quốc: họ nói về quyền mưu cầu hạnh phúc – chứ không phải về quyền hạnh phúc. Như thế nghĩa là một cá nhân có quyền làm những gì cá nhân đó coi là cần thiết để đạt được hạnh phúc; chứ không có nghĩa là những người khác phải làm cho cá nhân đó hạnh phúc.
Quyền sống nghĩa là cá nhân có quyền nuôi sống mình bằng công việc của chính mình (ở bất cứ trình độ kinh tế nào, ở mức khả năng cá nhân cho phép); chứ không có nghĩa là những người khác phải cung cấp cho cá nhân đó các thứ cần để sống.
Quyền sở hữu nghĩa là cá nhân có quyền tiến hành các hoạt động kinh tế cần thiết để tìm kiếm, sử dụng và định đoạt tài sản; không có nghĩa là những người khác phải mang tài sản đến cho cá nhân đó.
Quyền tự do ngôn luận nghĩa là cá nhân có quyền thể hiện/ trình bày ý kiến mà không có nguy cơ bị đàn áp, can thiệp hay phải chịu sự trừng phạt của chính phủ. Quyền này không có nghĩa là những người khác phải cung cấp cho cá nhân khán phòng, đài phát thanh hay tòa báo để thông qua đó thể hiện/ trình bày ý kiến của cá nhân đó.
Bất kỳ công việc nào liên quan tới nhiều hơn một người đều đòi hỏi sự đồng ý tự nguyện của tất cả các bên tham gia. Mỗi người trong số họ có quyền ra quyết định riêng, nhưng không ai có quyền áp đặt quyết định của mình lên người khác.
Không có cái gọi là “quyền làm một công việc” – chỉ có quyền tự do trao đổi, tức là: quyền của cá nhân có một công việc nếu được người khác chọn thuê. Không có “quyền có nhà ở”, chỉ có quyền tự do trao đổi: quyền xây một căn nhà hoặc mua nhà. Không có “quyền được trả lương, trả giá công bằng” nếu không ai muốn trả, muốn thuê mướn một cá nhân hay mua sản phẩm của cá nhân đó. Không có “quyền của người tiêu dùng” mua sữa, giày, phim ảnh hay rượu sân banh nếu không nhà sản xuất nào lựa chọn sản xuất những mặt hàng đó (chỉ có quyền sản xuất của nhà sản xuất thôi). Không có “quyền” của những nhóm đặc biệt, không có “quyền của nông dân, công nhân, doanh nhân, người lao động, người già, người trẻ, những đứa trẻ chưa ra đời”.
Chỉ có Quyền Con Người – là các quyền được sở hữu bởi mọi cá nhân và bởi tất cả mọi người như những cá nhân.
Quyền về tài sản và quyền tự do trao đổi là “quyền kinh tế” duy nhất của con người (thật ra, chúng là quyền chính trị) – và không thể có cái gì như là “một đạo luật về quyền kinh tế”. Vậy mà, hãy quan sát những người cổ súy cho cái đạo luật này, họ ban hành đủ thứ và họ phá hoại quyền kinh tế.
Hãy nhớ rằng quyền là những nguyên tắc đạo đức xác định và bảo vệ tự do hành động của con người, nhưng không áp đặt nghĩa vụ nào lên người khác. Các công dân đều không phải là mối đe dọa đối với quyền hay tự do của người khác. Công dân nào sử dụng vũ lực và vi phạm quyền của người khác thì là tội phạm – và mọi người được pháp luật bảo vệ chống lại hắn.
Tội phạm là thiểu số nhỏ trong bất kỳ thời đại hay đất nước nào. Và mối nguy hại mà bọn họ tạo ra đối với nhân loại là nhỏ bé vô cùng so với nỗi kinh hoàng – đổ máu, chiến tranh, khủng bố, sung công, nạn đói, chế độ nô lệ, hủy diệt hàng loạt – do các nhà nước từng hiện diện trong lịch sử nhân loại tạo ra. Mỗi chính quyền đều có khả năng trở thành mối đe dọa nguy hiểm nhất đối với quyền con người: nó giữ địa vị độc quyền hợp pháp trong việc sử dụng vũ lực nhằm vào các nạn nhân không hề được vũ trang, theo quy định của pháp luật. Khi không chịu giới hạn và hạn chế nào bởi các quyền cá nhân, chính quyền là kẻ thù nguy hiểm số một của con người. Tuyên ngôn Nhân quyền được viết ra không phải là để bảo vệ người ta trước các hành động của tư nhân, mà là để chống các hành động của chính phủ.
Bây giờ hãy quan sát cái quá trình trong đó sức mạnh bảo vệ ấy bị tiêu diệt.
Quá trình ấy đổ cho các công dân tội vi phạm những điều mà theo hiến pháp, chính chính quyền mới bị cấm vi phạm (tức là những điều mà các công dân không đủ quyền lực để thực hiện), và nhờ thế giải phóng cho chính quyền khỏi mọi ràng buộc. Hành động đổ tội đó đang tăng lên ngày một rõ ràng hơn trong lĩnh vực tự do ngôn luận. Suốt nhiều năm trời, những người theo chủ nghĩa tập thể đã tuyên truyền cho cái quan điểm nói rằng tư nhân từ chối tài trợ tức là vi phạm quyền tự do ngôn luận và là “kiểm duyệt”.
Như thế là “kiểm duyệt”, họ tuyên bố, khi một tờ báo từ chối đặt hay đăng tải bài viết của những tác giả có chủ kiến đối lập hoàn toàn với chủ trương của tờ báo.
Như thế là “kiểm duyệt”, họ tuyên bố, khi một nhà tài trợ phản đối chi tiết xúc phạm nào đó trên chương trình truyền hình mà ông ta bỏ tiền tài trợ - như trường hợp Alger Hiss được mời lên truyền hình để lăng mạ Phó Tổng thống Nixon.
Về sau, ông Newton N. Minow (*) tuyên bố: “Có kiểm duyệt thông qua xếp hàng, có kiểm duyệt bởi nhà quảng cáo, bởi truyền hình, bởi các chi nhánh sẽ bác bỏ lịch phát sóng phủ tới địa bàn của họ”. Cũng chính ông Minow ấy đe dọa rút giấy phép bất kỳ đài nào không tuân thủ chủ trương phát sóng của ông – và ai nói đó không phải là kiểm duyệt.
Hãy suy nghĩ về hàm ý sâu xa trong một khuynh hướng như thế.
“Kiểm duyệt” là chuyện chỉ gắn với nhà nước. Không có kiểm duyệt của tư nhân. Không một công dân hay công ty tư nhân nào có thể khiến ai đó phải im lặng hay tịch thu một ấn bản; chỉ nhà nước có thể làm điều đó. Tự do ngôn luận của công dân bao gồm cả quyền không đồng ý, không nghe và không tài trợ cho người đối địch với mình.
Nhưng theo các học thuyết như “đạo luật kinh tế về quyền cá nhân” kia, cá nhân không có quyền khai thác các phương tiện vật chất của mình theo sự hướng dẫn của lý trí, và phải bỏ tiền cho bất kỳ diễn giả hay nhà tuyên truyền nào có “quyền” đối với tài sản của anh ta.
Như vậy có nghĩa là việc cung cấp công cụ để thể hiện ý kiến đã tước đoạt của con người cái quyền được nêu ý kiến. Nó có nghĩa là nhà làm sách phải xuất bản những cuốn sách ông ta coi là vô giá trị, sai lệch hay xấu xa, nhà tài trợ truyền hình phải chi tiền cho các bình luận viên lăng mạ quan niệm của ông ta, chủ bút một tờ báo phải nộp những trang báo của ông ta cho một gã lưu manh trẻ ranh hò hét đòi nô dịch báo chí. Nghĩa là một nhóm người giành được “quyền” có giấy phép vô hạn trong khi nhóm khác bị vô hiệu hóa tới bất lực.
Nhưng rõ ràng là bất khả thi nếu phải cấp cho mỗi người có yêu sách một công việc, một chiếc micro hay một chuyên mục trên tờ báo, thế nên ai sẽ quyết định việc “phân phối” các “quyền kinh tế” đó và chỉ định người nhận, trong khi người chủ sở hữu đã mất quyền được lựa chọn? À, về điểm này ông Minow đã chỉ ra khá rõ.
Và nếu bạn nghĩ một cách sai lầm rằng điều trên chỉ đúng với người nào sở hữu những tài sản lớn, bạn nên nhận thấy rằng lý thuyết về “các quyền kinh tế” đề cập cả đến “quyền” của tất cả những người mà trong tương lai sẽ trở thành nhà biên kịch, nhà thơ cách tân, nhà soạn nhạc ồn ào và tất cả các nghệ sĩ phi vật thể (những người có sức thu hút về chính trị) - quyền của họ đối với sự ủng hộ về tài chính mà bạn đã không trao cho họ nếu không tham gia show diễn của họ. Việc sử dụng tiền thuế của bạn vào tài trợ cho nghệ thuật còn có ý nghĩa nào khác đâu?
Và trong khi người ta làm ầm ĩ về “các quyền kinh tế” thì khái niệm quyền chính trị lu mờ dần. Người ta đã quên rằng tự do ngôn luận tức là tự do cổ súy cho quan điểm của ai đó và chấp nhận các kết quả có thể đến, gồm sự bất đồng với những người khác, sự phản đối từ những người khác, không được ưa thích, mất đi sự ủng hộ. Chức năng chính trị của “quyền tự do ngôn luận” là bảo vệ những người không quy phục và những thiểu số không được ưa chuộng khỏi sự áp chế bằng sức mạnh – chứ không phải là bảo đảm mang đến cho họ sự ủng hộ, lợi thế hay mối thiện cảm mà họ đã không có được.
Tuyên ngôn Nhân quyền viết: “Quốc hội sẽ không ra luật nào… tước đi tự do ngôn luận, hay tự do báo chí…”. Tuyên ngôn không yêu cầu các công dân phải trao micro cho kẻ muốn hủy hoại họ, trao cái chìa khóa vạn năng cho tên trộm muốn lấy tiền của họ, hay trao con dao cho tên sát nhân muốn cắt cổ họ.
Một trong các vấn đề cốt yếu nhất của ngày hôm nay là vậy: các quyền chính trị chống “các quyền kinh tế”. Đây là vấn đề hoặc cái này hoặc cái kia, cái này tiêu diệt cái kia. Nhưng trong thực tế, không có “quyền kinh tế”, không có “quyền tập thể”, không có “lợi ích công” nào cả. “Quyền cá nhân” là một cụm từ thừa thãi: chẳng có quyền nào khác và cũng chẳng còn đối tượng nào khác có quyền ấy.
Những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản thị trường tự do là lực lượng duy nhất cổ súy cho quyền con người.

(*) Newton N. Minow: sinh năm 1926, là một luật sư, chính khách người Mỹ, cựu chủ tịch Ủy ban Truyền thông Liên bang (Federal Commnunications Commission) của Mỹ. Trong một bài diễn văn tại hội nghị của Hiệp hội Quốc gia các nhà truyền thông (9/5/1961), ông phê phán gay gắt truyền hình vì đã không làm nhiều hơn để phục vụ lợi ích công, chỉ phát sóng những nội dung phù phiếm hoặc nặng về sex. Nhiều người hoan nghênh ông nhưng cũng nhiều người cho rằng ý kiến của ông là biểu hiện của sự can thiệp từ phía chính quyền lên doanh nghiệp tư nhân. (lược dịch từ Wikipedia).
Nguồn: chungta.com

VIỆT NAM YÊU DẤU