Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. - Điều 19, Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền

8/1/13

Kiến thức pháp luật: LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN VÀ TRƯNG CẦU DÂN Ý (SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP)

Nguồn: Ba Sàm

Lấy ý kiến nhân dân và trưng cầu dân ý

 Nguyễn Quang A
 Ngày 2-1-2013 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được công bố để lấy ý kiến nhân dân trong ba tháng. Nhiều người lẫn giữa việc lấy ý kiến của nhân dân và việc trưng cầu dân ý. Hãy thử làm rõ sự khác biệt này.
Hiến pháp là của ai? Ai là người quyết định về Hiến pháp và họ quyết định thế nào? Đáng tiếc những vấn đề cơ bản như vậy từ rất lâu vẫn bị hiểu nhầm.
Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng 2011 và các từ điển trước đó khá lâu) vẫn định nghĩa hiến pháp là “đạo luật cơ bản của nhà nước, quy định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, tổ chức bộ máy nhà nước”. Có lẽ những người soạn dự thảo lần này cũng vẫn hiểu lầm như thế.
Nếu muốn xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, thì mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân. Hiến pháp không phải là của nhà nước, mà là của nhân dân. Trong Hiến pháp nhân dân là chủ thể, là người quyết định, là những người trao quyền cho nhà nước (phân quyền cho các nhánh nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp) đến mức nào và như thế nào để bảo vệ các quyền tự do và sự hạnh phúc của người dân. Đấy là quyền tối cao của nhân dân. Như thế nhân dân là người quyết định Hiến pháp. Đối tượng của Hiến pháp (đối tượng phải thi hành, phải tuân thủ Hiến pháp và bị hạn chế quyền lực bởi Hiến pháp)  chính là nhà nước chứ không phải người dân.
Tất nhiên, việc đòi hỏi tất cả nhân dân cùng tham gia vào soạn ra Hiến pháp là việc bất khả thi.

Nhân dân có thể ủy thác cho các nhóm không quá đông người (có thể là một Quốc hội lập hiến hay các nhóm có chức năng như vậy) để soạn ra (các) dự thảo Hiến pháp.
(Các) dự thảo đó phải được công bố công khai để nhân dân góp ý và thảo luận trong một thời gian đủ dài.
Trên cơ sở góp ý và thảo luận công khai đó (các) dự thảo cuối cùng được hoàn thiện (tốt nhất là: (a) chỉ có 2 dự thảo hoàn chỉnh cuối cùng; hay (b) có 1 dự thảo với một số điều cốt lõi mà mỗi điều có 2 lựa chọn khác nhau; hoặc (c) có 1 dự thảo hoàn chỉnh duy nhất) để đưa ra trưng cầu dân ý.
Trong trưng cầu dân ý tất cả các công dân bằng lá phiếu của mình đều có quyền lựa chọn: (a) tán thành (một trong 2) bản dự thảo; hoặc (b) tán thành từng lựa chọn của các điều cơ bản của một dự thảo; hay (c) tán thành hoặc bác bỏ một dự thảo hoàn chỉnh duy nhất.
Việc bỏ phiếu phải được diễn ra một cách tự do và việc kiểm phiếu phải được giám sát chặt chẽ (bởi người dân, báo chí, đại diện của các tổ chức quốc tế) để tránh sự gian lận. Kết quả Hiến pháp được thông qua sẽ là: (a) bản dự thảo nào được đa số cử tri tán thành; hay (b) dự thảo Hiến pháp với các điều khoản cơ bản theo đúng lựa chọn của đa số; hoặc (c) dự thảo duy nhất được đa số cử tri tán thành hay Hiến pháp cũ (nếu dự thảo duy nhất này bị đa số bác bỏ).
Chỉ với việc quyết định của nhân dân, thông qua trưng cầu dân ý như trên, thì Hiến pháp mới thực sự là Hiến pháp.
Như thế có thể thấy hai khâu “lấy ý kiến của dân” và “trưng cầu dân ý” là 2 khâu tách biệt và đều rất quan trọng.
Không có lấy ý kiến của nhân dân, không có thảo luận công khai hay không có đủ thời gian để thảo luận công khai về (các) dự thảo, để hình thành (các) dự thảo cuối cùng sẽ dẫn đến một Hiến pháp không tốt, không tạo ra sự đồng thuận trong nhân dân và như thế có thể gây chia rẽ, có hại cho sự phát triển của đất nước.
Việc thông qua Hiến pháp bằng trưng cầu dân ý ở Ai cập vừa qua là một thí dụ như vậy. Tại Ai Cập đã có trưng cầu dân ý, nhưng đã không có sự tham gia, lấy ý kiến, thảo luận của nhân dân (hay các nhóm khác nhau) để hình thành bản dự thảo cuối cùng đưa ra trưng cầu dân ý. Khi không có sự thảo luận công khai để cho các ý kiến khác nhau đối chọi với nhau, thì người dân thiếu thông tin và rất dễ nhầm trong lựa chọn (tán thành hay bác bỏ) của mình.
Chúng ta để 3 tháng lấy ý kiến nhân dân. Để cho việc lấy ý kiến được hiệu quả thì việc khuyến khích thảo luận, tranh luận công khai về nội dung của dự thảo là hết sức quan trọng.
Nếu không có thảo luận, tranh luận mà mỗi người chỉ viết ra ý kiến của mình và gửi cho ban soạn thảo thì việc lấy ý kiến rất dễ biến thành hình thức. Không có sự cọ xát, thậm chí sự đối đầu kịch liệt của các ý kiến khác nhau thì không thể hình thành các nhóm ý kiến chính được phản ánh trong 2 lựa chọn của bản dự thảo cuối cùng, khiến cho việc tiếp thu ý kiến là không thể. Ban soạn thảo dẫu có 5 đầu 6 tai cũng không thể đánh giá, phân loại ý kiến của hàng triệu người. Thiếu thảo luận, thiếu tranh luận tự do và công khai hay cản trở việc hình thành các nhóm khác nhau có các ý kiến khác nhau để giúp cho quá trình lấy ý kiến được hiệu quả thể hiện trong các dự thảo cuối cùng, thì việc lấy ý kiến của nhân dân dễ trở thành hình thức, tốn tiền của, công sức và vô ích.
Sau khi đã có thảo luận, tranh luận để hình thành (các) dự thảo cuối cùng mà nhân dân không được quyết định thông qua lá phiếu của mình, thì Hiến pháp, dẫu có được 100% “đại biểu” thông qua, cũng không phải là Hiến pháp thực sự để tạo ra một nhà nước của dân, do dân, vì dân nhằm hạn chế quyền lực của nhà nước và bảo vệ các quyền tự do của người dân.
Việc khuyến khích nhân dân góp ý, thảo luận, tranh luận là rất đáng hoan nghênh. Sau ba tháng nên hoàn chỉnh (các) dự thảo và đưa ra cho toàn dân quyết định. Làm được vậy là một bước tiến lớn để xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân và  góp phần hết sức quan trọng để làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
 Ghi chú: Bài đã được đăng trên Lao động Cuối tuần, Số 1, thứ Năm, 3/1/2013, hầu như không thay đổi với bản gốc trên đây.

VIỆT NAM YÊU DẤU