Nguồn: Ba Sàm
Lấy ý kiến nhân dân và trưng cầu dân ý
Nguyễn Quang A
Ngày 2-1-2013 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
1992 được công bố để lấy ý kiến nhân dân trong ba tháng. Nhiều người
lẫn giữa việc lấy ý kiến của nhân dân và việc trưng cầu dân ý. Hãy thử
làm rõ sự khác biệt này.
Hiến pháp là của ai? Ai là người quyết
định về Hiến pháp và họ quyết định thế nào? Đáng tiếc những vấn đề cơ
bản như vậy từ rất lâu vẫn bị hiểu nhầm.
Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng 2011 và các từ điển trước đó khá lâu) vẫn định nghĩa hiến pháp là “đạo luật cơ bản của nhà nước, quy định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, tổ chức bộ máy nhà nước”. Có lẽ những người soạn dự thảo lần này cũng vẫn hiểu lầm như thế.
Nếu muốn xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, thì mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân. Hiến pháp không phải là của nhà nước, mà là của nhân dân. Trong
Hiến pháp nhân dân là chủ thể, là người quyết định, là những người trao
quyền cho nhà nước (phân quyền cho các nhánh nhà nước như lập pháp,
hành pháp và tư pháp) đến mức nào và như thế nào để bảo vệ các quyền tự
do và sự hạnh phúc của người dân. Đấy là quyền tối cao của nhân dân. Như
thế nhân dân là người quyết định Hiến pháp. Đối tượng của Hiến pháp
(đối tượng phải thi hành, phải tuân thủ Hiến pháp và bị hạn chế quyền
lực bởi Hiến pháp) chính là nhà nước chứ không phải người dân.
Tất nhiên, việc đòi hỏi tất cả nhân dân cùng tham gia vào soạn ra Hiến pháp là việc bất khả thi.
Nhân dân có thể ủy thác cho các nhóm
không quá đông người (có thể là một Quốc hội lập hiến hay các nhóm có
chức năng như vậy) để soạn ra (các) dự thảo Hiến pháp.
(Các) dự thảo đó phải được công bố công khai để nhân dân góp ý và thảo luận trong một thời gian đủ dài.
Trên cơ sở góp ý và thảo luận công khai
đó (các) dự thảo cuối cùng được hoàn thiện (tốt nhất là: (a) chỉ có 2 dự
thảo hoàn chỉnh cuối cùng; hay (b) có 1 dự thảo với một số điều cốt lõi
mà mỗi điều có 2 lựa chọn khác nhau; hoặc (c) có 1 dự thảo hoàn chỉnh
duy nhất) để đưa ra trưng cầu dân ý.
Trong trưng cầu dân ý tất cả các công
dân bằng lá phiếu của mình đều có quyền lựa chọn: (a) tán thành (một
trong 2) bản dự thảo; hoặc (b) tán thành từng lựa chọn của các điều cơ
bản của một dự thảo; hay (c) tán thành hoặc bác bỏ một dự thảo hoàn
chỉnh duy nhất.
Việc bỏ phiếu phải được diễn ra một cách
tự do và việc kiểm phiếu phải được giám sát chặt chẽ (bởi người dân,
báo chí, đại diện của các tổ chức quốc tế) để tránh sự gian lận. Kết quả
Hiến pháp được thông qua sẽ là: (a) bản dự thảo nào được đa số cử tri
tán thành; hay (b) dự thảo Hiến pháp với các điều khoản cơ bản theo đúng
lựa chọn của đa số; hoặc (c) dự thảo duy nhất được đa số cử tri tán
thành hay Hiến pháp cũ (nếu dự thảo duy nhất này bị đa số bác bỏ).
Chỉ với việc quyết định của nhân dân, thông qua trưng cầu dân ý như trên, thì Hiến pháp mới thực sự là Hiến pháp.
Như thế có thể thấy hai khâu “lấy ý kiến của dân” và “trưng cầu dân ý” là 2 khâu tách biệt và đều rất quan trọng.
Không có lấy ý kiến của nhân dân, không
có thảo luận công khai hay không có đủ thời gian để thảo luận công khai
về (các) dự thảo, để hình thành (các) dự thảo cuối cùng sẽ dẫn đến một
Hiến pháp không tốt, không tạo ra sự đồng thuận trong nhân dân và như
thế có thể gây chia rẽ, có hại cho sự phát triển của đất nước.
Việc thông qua Hiến pháp bằng trưng cầu
dân ý ở Ai cập vừa qua là một thí dụ như vậy. Tại Ai Cập đã có trưng cầu
dân ý, nhưng đã không có sự tham gia, lấy ý kiến, thảo luận của nhân
dân (hay các nhóm khác nhau) để hình thành bản dự thảo cuối cùng đưa ra
trưng cầu dân ý. Khi không có sự thảo luận công khai để cho các ý kiến
khác nhau đối chọi với nhau, thì người dân thiếu thông tin và rất dễ
nhầm trong lựa chọn (tán thành hay bác bỏ) của mình.
Chúng ta để 3 tháng lấy ý kiến nhân dân.
Để cho việc lấy ý kiến được hiệu quả thì việc khuyến khích thảo luận,
tranh luận công khai về nội dung của dự thảo là hết sức quan trọng.
Nếu không có thảo luận, tranh luận mà
mỗi người chỉ viết ra ý kiến của mình và gửi cho ban soạn thảo thì việc
lấy ý kiến rất dễ biến thành hình thức. Không có sự cọ xát, thậm chí sự
đối đầu kịch liệt của các ý kiến khác nhau thì không thể hình thành các
nhóm ý kiến chính được phản ánh trong 2 lựa chọn của bản dự thảo cuối
cùng, khiến cho việc tiếp thu ý kiến là không thể. Ban soạn thảo dẫu có 5
đầu 6 tai cũng không thể đánh giá, phân loại ý kiến của hàng triệu
người. Thiếu thảo luận, thiếu tranh luận tự do và công khai hay cản trở
việc hình thành các nhóm khác nhau có các ý kiến khác nhau để giúp cho
quá trình lấy ý kiến được hiệu quả thể hiện trong các dự thảo cuối cùng,
thì việc lấy ý kiến của nhân dân dễ trở thành hình thức, tốn tiền của,
công sức và vô ích.
Sau khi đã có thảo luận, tranh luận để
hình thành (các) dự thảo cuối cùng mà nhân dân không được quyết định
thông qua lá phiếu của mình, thì Hiến pháp, dẫu có được 100% “đại biểu”
thông qua, cũng không phải là Hiến pháp thực sự để tạo ra một nhà nước
của dân, do dân, vì dân nhằm hạn chế quyền lực của nhà nước và bảo vệ
các quyền tự do của người dân.
Việc khuyến khích nhân dân góp ý, thảo
luận, tranh luận là rất đáng hoan nghênh. Sau ba tháng nên hoàn chỉnh
(các) dự thảo và đưa ra cho toàn dân quyết định. Làm được vậy là một
bước tiến lớn để xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân và góp
phần hết sức quan trọng để làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh.
Ghi chú: Bài đã được đăng trên Lao động Cuối tuần, Số 1, thứ Năm, 3/1/2013, hầu như không thay đổi với bản gốc trên đây.