Trích dẫn lại từ: Tạp chí Cộng sản
PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn, Học viện Chính trị
Về khái niệm quyền con người và quyền công dân
Ở
Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người”, còn có thuật ngữ “nhân
quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh “human
rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang tiếng Việt là quyền con người; còn
nếu dịch qua Hán - Việt là nhân quyền. Xét về mặt ngôn ngữ học, theo Đại
Từ điển tiếng Việt, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa
(1).
Nhân
quyền, ở góc độ khái quát nhất, theo Liên hợp quốc, có thể hiểu là
những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được bảo đảm thì
chúng ta sẽ không thể sống như một con người (2). Tại Việt Nam, một số
định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu
từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con
người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc
gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Thuật
ngữ “công dân”, theo Từ điển Merriam Webster’s Collegiate Dictionary,
“công dân (citizen) là một thành viên của một nhà nước mà người đó có
nghĩa vụ trung thành và được hưởng sự bảo vệ”. Cũng như thuật ngữ nhân
quyền, có nhiều định nghĩa về quyền công dân (citizen’s right), tuy vậy,
theo một nghĩa khái quát nhất, có thể hiểu quyền công dân là những lợi
ích pháp lý được các nhà nước thừa nhận và bảo vệ cho những người
có quốc tịch của nước mình.
Sự khác biệt giữa quyền con người và quyền công dân
Một là,
tư tưởng về quyền con người được hình thành cùng với sự xuất hiện của
những nền văn minh cổ đại. Còn khái niệm quyền công dân chỉ xuất hiện
cùng với cách mạng tư sản. Vì cách mạng tư sản đã đưa con
người từ địa vị thần dân trở thành công dân - với tư cách là
những thành viên bình đẳng trong một nhà nước, và pháp điển
hóa các quyền tự nhiên của con người dưới hình thức các quyền
công dân. Như vậy, khái niệm quyền công dân xuất hiện sau khái niệm
quyền con người.
Hai là,
xét tổng quát, quyền công dân có nội hàm hẹp hơn so với quyền con
người, do quyền công dân chỉ là những quyền con người được các
nhà nước thừa nhận và áp dụng cho riêng công dân của mình.
Chẳng hạn, trong một số trường hợp, hiến pháp của một số quốc gia có thể
quy định những quyền vốn không được nêu trong luật nhân quyền quốc tế,
như quyền sở hữu và sử dụng súng. Tuy nhiên, đây chỉ là một số trường
hợp ngoại lệ. Xét tổng quát, các quyền hiến định trong hiến pháp của các
quốc gia đều đã được ghi nhận hoặc hàm chứa trong các quyền đã được ghi
nhận bởi luật nhân quyền quốc tế.
Ở nhiều góc độ khác nhau - xem so sánh,
có thể chứng minh quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền
công dân. Ví dụ, về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp
trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước như quyền công dân,
mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng
nhân loại. Về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế
định quốc tịch, nên chủ thể của quyền con người là tất cả
các thành viên của gia đình nhân loại, bất kể vị thế, hoàn
cảnh, quốc tịch,... Nói cách khác, quyền con người được áp
dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân
tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào
biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ
thể quyền.
So sánh quyền con người, quyền công dân
Lịch sử:
Quyền con người: Tư tưởng xuất hiện trong các nền văn minh cổ đại; luật nhân quyền quốc tế chỉ có từ 1945
Quyền công dân: Từ cách mạng tư sản (khoảng thế kỷ 16)
Công cụ ghi nhận và bảo đảm:
Quyền con người: Luật quốc tế (toàn cầu và khu vực) và luật quốc gia
Quyền công dân: Luật quốc gia (trước hết là hiến pháp)
Nội hàm:
Quyền con người: Những tự do và bảo đảm mà mọi thành viên trong gia đình nhân loại được hưởng và được cộng đồng quốc tế bảo vệ
Quyền công dân: Những tự do và bảo đảm mà một quốc gia dành cho các công dân của nước mình
Tính chất:
Quyền con người: Tự nhiên, vốn có, không do chủ thể nào ban phát. Thể hiện vị thế của mỗi cá nhân trong quan hệ với quốc gia mà cá nhân đó là công dân và với cộng đồng nhân loại
Quyền công dân: Do các nhà nước xác định bằng pháp luật. Thể hiện vị thế của mỗi cá nhân trong quan hệ với quốc gia mà cá nhân đó là công dân.
Đặc điểm:
Quyền con người: Áp dụng toàn cầu; đồng nhất trong mọi hoàn cảnh; không thay đổi theo thời gian.
Quyền công dân: Áp dụng trong lãnh thổ quốc gia; không hoàn toàn giống nhau giữa các quốc gia; có thể bị thay đổi theo thời gian.
Chủ thể có quyền:
Quyền con người: Mọi thành viên của nhân loại, bất kể dân tộc, chủng tộc, thành phần xuất thân, tôn giáo, tư tưởng, giới tính, độ tuổi,…
Quyền công dân: Chỉ những người có quốc tịch của một quốc gia.
Chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm:
Quyền con người: Các nhà nước là chủ thể chính, ngoài ra các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, cộng đồng, cá nhân.. đều có trách nhiệm.
Quyền công dân: Các nhà nước là chủ thể chính, ngoài ra các doanh nghiệp, cộng đồng, cá nhân… cũng có trách nhiệm.
Cơ chế bảo vệ:
Quyền con người:
Các diễn đàn, thủ tục điều tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm
nhân quyền của Liên hợp quốc và một số tổ chức liên chính phủ khu vực.
Quyền công dân: Toà
án và một số cơ chế tài phán khác ở mỗi quốc gia. Trong một số trường
hợp, các cơ chế quốc tế được áp dụng như là giải pháp tiếp nối.
Nhóm quyền chủ yếu:
Quyền con người: Kinh tế, xã hội, văn hóa
Quyền công dân: Dân sự, chính trị
Một cá nhân, ngoại trừ những người không quốc tịch, xét về danh nghĩa, luôn đồng thời là chủ thể của cả hai loại quyền (con người và công dân). Sự phân biệt trong việc thụ hưởng hai loại quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh đặc biệt. Chẳng hạn, một người nước ngoài sẽ không được hưởng một số quyền công dân (và cũng là những quyền con người) đặc thù, như quyền bầu cử, ứng cử,...; nhưng người đó vẫn được hưởng các quyền con người phổ biến (mà đồng thời cũng là các quyền công dân) áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại trong mọi hoàn cảnh, như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân,...
Một cá nhân, ngoại trừ những người không quốc tịch, xét về danh nghĩa, luôn đồng thời là chủ thể của cả hai loại quyền (con người và công dân). Sự phân biệt trong việc thụ hưởng hai loại quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh đặc biệt. Chẳng hạn, một người nước ngoài sẽ không được hưởng một số quyền công dân (và cũng là những quyền con người) đặc thù, như quyền bầu cử, ứng cử,...; nhưng người đó vẫn được hưởng các quyền con người phổ biến (mà đồng thời cũng là các quyền công dân) áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại trong mọi hoàn cảnh, như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân,...
Có
thể nói, quyền công dân không phải là hình thức toàn diện của
quyền con người. Với ý nghĩa là một khái niệm gắn liền với
nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với nhà nước,
được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là
chế định quốc tịch, quyền công dân là tập hợp những quyền tự
nhiên được pháp luật của một nước ghi nhận và bảo đảm, nhưng
chủ yếu dành cho những người có quốc tịch của nước đó. Không
phải ai cũng được hưởng các quyền công dân của một quốc gia
nhất định, và không phải hệ thống quyền công dân của mọi quốc
gia đều giống hệt nhau, cũng như đều hoàn toàn tương thích với
hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người.
Ba là,
đa số hiến pháp các nước đều quy định rạch ròi quyền công dân và quyền
con người; và đều sử dụng cả hai thuật ngữ công dân và mọi người. Những
quyền dành cho công dân thì chế định “công dân có quyền,...”; những
quyền dành cho mọi người thì sử dụng thuật ngữ mọi người/hoặc không ai.
Thí dụ: không ai bị bắt, giam giữ vô cớ, hoặc bị tra tấn, nhục hình.
Dù
quy định theo cách nào thì quyền con người, quyền công dân cũng là một
nội dung quan trọng, có tính xuyên suốt trong hiến pháp của các quốc
gia. Một công trình nước ngoài, trên cơ sở khảo cứu 420 bản hiến pháp
của các quốc gia trên thế giới, đã thống kê có đến gần 60 quyền con
người được chế định trong hiến pháp các nước và luật nhân quyền quốc tế
(3).
Cụ thể: 1/ Quyền sống; 2/ Tự do biểu đạt; 3/ Tự do tôn giáo, tín
ngưỡng; 4/ Tự do hội họp; 5/ Tự do lập hội; 6/ Tự do báo chí; 7/ Tự do
tư tưởng, ý kiến, quan điểm; 8/ Cấm kiểm duyệt; 9/ Quyền được thành lập
hoặc gia nhập công đoàn; 10/ Tự do đi lại; 11/ Quyền bảo vệ đời tư; 12/
Quyền sở hữu tài sản; 13/ Quyền được lựa chọn nghề nghiệp; 14/ Cấm chế
độ nô lệ, nô dịch hoặc cưỡng bức lao động; 15/ Quyền có quốc tịch; 16/
Cấm hồi tố; 17/ Không bị trừng phạt khi luật chưa quy định là tội phạm;
18/ Quyền không bị tước tự do một cách tùy tiện; 19/ Quyền được suy đoán
vô tội; 20/ Quyền được im lặng hoặc không phải tự chứng minh mình không
phạm tội; 21/ Quyền được yêu cầu xem xét lại việc bắt giữ mình; 22/
Quyền được kháng cáo; 23/ Quyền được xét xử công khai; 24/ Quyền không
bị xét xử hai lần vì cùng một hành vi phạm tội; 25/ Cấm tra tấn, đối xử
tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; 26/ Quyền được tại ngoại chờ xét xử;
27/ Quyền được xét xử công bằng; 28/ Quyền được đền bù khi bị xét xử oan
sai; 29/ Quyền được sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình trong tố tụng;
30/ Quyền được có thị trường tự do; 31/ Quyền được xét xử nhanh chóng;
32/ Các quyền của trẻ em; 33/ Các quyền của người không quốc tịch; 34/
Quyền được trả thù lao công bằng và thích đáng; 35/ Quyền được tự do
kinh doanh; 36/ Quyền được đình công; 37/ Quyền được đảm bảo điều kiện
làm việc an toàn, lành mạnh; 38/ Các quyền về sở hữu trí tuệ; 39/ Quyền
được chăm sóc y tế; 40/ Nghĩa vụ của nhà nước phải cung cấp dịch vụ y tế
miễn phí; 41/ Quyền được kết hôn; 42/ Quyền được lập gia đình; 43/
Quyền được hưởng chuẩn mực sống thích đáng; 44/ Cấm sử dụng lao động trẻ
em; 45/ Cấm trừng phạt thể chất; 46/ Cấm hình phạt tử hình; 47/ Các
quyền đặc biệt của trẻ em trong tố tụng hình sự; 48/ Quyền được có nơi
ở; 49/ Quyền tự quyết dân tộc; 50/ Quyền tiếp cận thông tin do các cơ
quan nhà nước nắm giữ; 51/ Quyền được hưởng những thành quả của khoa
học; 52/ Quyền thừa kế; 53/ Quyền được bảo vệ danh dự; 54/ Quyền được
chuyển nhượng tài sản; 55/ Quyền được xin thôi quốc tịch; 56/ Quyền được
di chúc để lại tài sản; 57/ Quyền thay thế nghĩa vụ quân sự vì lý do
lương tâm; 58/ Quyền của người tiêu dùng; 59/ Một số quyền của lao động
chưa thành niên.
Tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân
Một là,
theo nghĩa rộng, cả thuật ngữ “quyền con người” và “quyền công dân” đều
là những phạm trù triết học dùng để biểu thị mối quan hệ của cá nhân
con người với cộng đồng nhân loại (quyền con người) và với quốc gia nơi
mà người đó có quốc tịch (quyền công dân)
Quyền
con người và quyền công dân đều xoay quanh một chủ thể chung (của
quyền), đó là con người, và một chủ thể chung khác (có nghĩa vụ) là các
cộng đồng nhân loại mà thể chế chính trị - pháp lý trung tâm của nó là
nhà nước. Thêm vào đó, quyền con người và quyền công dân, về bản chất,
đều là những gì mà một cá nhân con người được phép làm và được thừa
nhận, tôn trọng, bảo vệ bởi các chủ thể khác. Chính vì thế mà quyền con
người và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi, và trong
nhiều bối cảnh hầu như không có sự phân biệt với nhau.
Hai là, các quyền con người, quyền công dân, được pháp điển hóa vào hiến pháp các nước trên thế giới theo những cách thức nhất định
Tuy
là hai phạm trù khác nhau, nhưng quyền con người và quyền công dân hầu
như không mâu thuẫn mà ngược lại, có sự thống nhất, bổ sung, hỗ trợ lẫn
nhau. Nhìn chung, các quyền con người, quyền công dân, được pháp điển
hóa vào hiến pháp các nước trên thế giới theo ba cách cơ bản sau:
Cách
thứ nhất: Đề cập trực tiếp thành các điều khoản trong một chương riêng
(có tên là “quyền con người”, “quyền con người, quyền công dân” hoặc
‘quyền công dân”…) hoặc rải rác trong một số chương của hiến pháp. Đây
là cách hiến định nhân quyền phổ biến nhất hiện nay, được đa số quốc
gia, trong đó có Việt Nam, áp dụng.
Cách
thứ hai: Các quyền con người, quyền công dân được quy định trong một
văn bản riêng và được thừa nhận như là một cấu phần của Hiến pháp. Ví
dụ, Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1689 và Bộ luật về quyền năm 2008 được coi
là hai văn bản nguồn của Hiến pháp nước Anh. Một ví dụ tiêu biểu khác
là nước Pháp. Lời mở đầu của Hiến pháp năm 1958 (hiện hành) của nước này
quy định: “Nhân dân Pháp trung thành với bản Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền 1789”. Điều đó có nghĩa là bản Tuyên ngôn (được ban hành trước
Hiến pháp hơn 150 năm) nhưng sau đó đã được thừa nhận như là một nội
dung của Hiến pháp.
Cách
thứ ba: Không quy định trực tiếp trong nội dung mà cũng không thành một
văn bản riêng, mà được xác định như là những điều bổ sung của Hiến
pháp. Đây là trường hợp của Hoa Kỳ. Hiến pháp Hoa Kỳ ban đầu không có
quy định trực tiếp nào về nhân quyền, nhưng sau đó được bổ sung 10 tu
chính án quy định về các quyền cơ bản mà sau này được gọi là Bộ luật về
các quyền của Mỹ.
Ba là, không chỉ quyền công dân mà cả quyền con người cũng chịu sự quy định của sự giới hạn quyền .
Giới
hạn của quyền nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa các quyền của cá nhân và các
quyền của tập thể (cộng đồng, quốc gia, dân tộc), cũng như việc thụ
hưởng quyền giữa các cá nhân với nhau. Luật nhân quyền quốc tế quy định
giới hạn áp dụng của một số quyền (limitation of rights) trong một số
điều ước quốc tế về quyền con người. Bản chất của các quy định này là
cho phép các quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện với việc thực
hiện/hưởng thụ một số quyền con người nhất định nhằm các mục đích như
thúc đẩy phúc lợi chung của cộng đồng, bảo vệ an ninh quốc gia (national
security), để bảo đảm an toàn cho cộng đồng (public safety), để bảo vệ
sức khỏe hay đạo đức của cộng đồng (public health or moral), và để bảo
vệ các quyền, tự do hợp pháp của người khác (rights and freedoms of
others). Chẳng hạn Điều 4 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị (ICCPR, 1966)) quy định rằng, trong những bối cảnh khẩn cấp đe
dọa sự sống còn của đất nước (state of emergency), các quốc gia có thể
áp dụng những biện pháp hạn chế việc thực hiện các quyền nêu trong Công
ước này (derogation of rights). Về bản chất, những quy định này là sự
tạm đình chỉ thực hiện một số quyền dân sự, chính trị trong một thời
gian nhất định do bối cảnh khẩn cấp của quốc gia, thông qua một số biện
pháp cụ thể như: thiết quân luật (trên cả nước, ở một khu vực hay một
địa phương); cấm biểu tình, hội họp đông người; cấm hoặc hạn chế hoạt
động của một số cơ quan thông tin đại chúng như truyền hình, phát thanh,
báo..; cấm đi lại ra, vào một khu vực hoặc xuất, nhập cảnh (với một số
cá nhân hay nhóm),…
Với
tính chất là một văn kiện pháp luật quốc gia, hiến pháp của nhiều nước
cũng quy định về giới hạn của các quyền con người, quyền công dân nhằm
những mục đích nêu trên. Quy định về vấn đề này ít nhiều khác nhau trong
hiến pháp các nước, nhưng giới hạn thường được áp dụng với các quyền tự
do ngôn luận, tự do hội họp, tự do đi lại,... Cũng tương tự như luật
nhân quyền quốc tế, hiến pháp một số nước có quy định về những giới hạn
áp dụng chung cho mọi quyền, đồng thời có quy định về giới hạn áp dụng
riêng cho một số quyền cụ thể.
Ở
cấp độ quốc gia, theo nghiên cứu của Dự án Hiến pháp so sánh
(Comparative Constitutions Project - CCP) (4), ở thời điểm năm 2000, xét
chung ở các khu vực, có hơn 80% số hiến pháp quy định về việc tuyên bố
tình trạng khẩn cấp, gấp đôi so với cuối thế kỷ XIX. Tại một số khu vực,
có đến gần 100% số hiến pháp quy định về vấn đề này. Tình trạng khẩn
cấp thường được tuyên bố khi xảy ra thảm họa thiên tai, bạo động hoặc
tuyên bố chiến tranh. Nhiều quốc gia quy định rõ về tình trạng khẩn cấp
trong hiến pháp hoặc luật nhằm tránh sự lạm dụng. Một số quốc gia tuyên
bố tình trạng khẩn cấp gần đây là: Philíppin (tháng 2-2006) sau khi có
cuộc đảo chính chống lại chính quyền, Hy Lạp (tháng 8-2007) khi bị cháy
rừng, Pakixtan (tháng 11-2007), Thái Lan (tháng 9-2008) đối phó với bất
ổn do biểu tình…
Trong
bối cảnh tình trạng khẩn cấp, hiến pháp của các quốc gia cũng quy định
về tạm đình chỉ thực hiện một số quyền dân sự, chính trị đồng thời xác
định rõ một số quyền sẽ không bị đình chỉ thực hiện kể cả trong bối cảnh
này như được đề cập trong luật nhân quyền quốc tế (5).
Kết luận
Quyền
con người và quyền công dân là hai phạm trù khác nhau, song có mối liên
hệ rất chặt chẽ, tác động, bổ sung lẫn nhau. Khái niệm và viễn cảnh về
quyền con người có thể được nhìn nhận qua lăng kính của quyền công dân
và ngược lại. Thực tế cho thấy sự gắn bó giữa quyền con người và quyền
công dân ngày càng trở lên mật thiết, đến nỗi trong một số trường hợp
rất khó phân biệt và trong một số bối cảnh không cần thiết phải phân
biệt giữa chúng (ví dụ các quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự,
nhân phẩm,…). Sự tương đồng kể trên khiến cho những nỗ lực thúc đẩy và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân trở lên khăng khít, không thể
tách rời, kể cả khi những nỗ lực này gắn liền với những chủ thể tương
đối khác nhau.
Mặc
dù vậy, do những khác biệt nhất định về tính chất, đối tượng và phạm vi
điều chỉnh, quyền con người và quyền công dân vẫn sẽ phát triển theo
hai “kênh” khác nhau mà sẽ không bao giờ hoà nhập hoàn toàn, trừ khi xã
hội loài người không còn nhà nước và pháp luật. Điều này đòi hỏi các chủ
thể có liên quan, đặc biệt là các tổ chức quốc tế, các nhà nước và các
tổ chức xã hội dân sự ở các quốc gia cần tiếp tục xây dựng và củng cố
các cơ chế hợp tác để cùng thúc đẩy và bảo vệ cả quyền con người và
quyền công dân trên mọi cấp độ: quốc gia, khu vực và quốc tế./.
----------------------------------------------------------------
(1) Viện Ngôn ngữ học, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H, 1999, tr.1239.
(2) United Nations, Human Rights: Questions and Answers (Quyền con người: hỏi và đáp), New York and Geneva, 2006, tr.4.
(3) Xem: Constitutional Convergence in Human Rights? The Reciprocal Relationship between Human Rights Treaties and National Constitutions, tài liệu đã dẫn, tr.19-21.
(4) CCP khảo sát 550/800 bản Hiến pháp thành văn đã được ban hành trên thế giới từ năm 1789, trong đó hơn 90% được thông qua sau Chiến tranh Thế giới II. Số liệu khảo sát ở mục này cập nhật đến ngày 22/5/2008. Xem dữ liệu của CCP tại http://www.constitutionmaking.org/reports.html
(5) Xem Comparative Constitutional Rights Chart của Arthur W. Diamond Law Library, Columbia Law School, tại http://www.hrcr.org/chart/limitations+duties/limits_general.html
PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn, Học viện Chính trị
(2) United Nations, Human Rights: Questions and Answers (Quyền con người: hỏi và đáp), New York and Geneva, 2006, tr.4.
(3) Xem: Constitutional Convergence in Human Rights? The Reciprocal Relationship between Human Rights Treaties and National Constitutions, tài liệu đã dẫn, tr.19-21.
(4) CCP khảo sát 550/800 bản Hiến pháp thành văn đã được ban hành trên thế giới từ năm 1789, trong đó hơn 90% được thông qua sau Chiến tranh Thế giới II. Số liệu khảo sát ở mục này cập nhật đến ngày 22/5/2008. Xem dữ liệu của CCP tại http://www.constitutionmaking.org/reports.html
(5) Xem Comparative Constitutional Rights Chart của Arthur W. Diamond Law Library, Columbia Law School, tại http://www.hrcr.org/chart/limitations+duties/limits_general.html